Luật Đầu tư 2014, thông qua vào ngày 26/11/2014 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2015, đã mang đến nhiều điểm mới quan trọng so với Luật Đầu tư 2005, với 7 chương và 76 điều quy định về hoạt động kinh doanh và đầu tư của các nhà đầu tư tại Việt Nam, cũng như việc đầu tư từ Việt Nam ra nước ngoài.
Mục lục
- 1 Bãi bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho nhà đầu tư trong nước
- 2 Quy định về cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho dự án đầu tư có vốn nước ngoài
- 3 Quy định về ngành nghề cấm và ngành nghề có điều kiện trong đầu tư kinh doanh
- 4 Thu gọn phạm vi yêu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài.
- 5 Quy định về quy trình quyết định chủ trương đầu tư
- 6 Quy định về tư cách của nhà đầu tư nước ngoài
Bãi bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho nhà đầu tư trong nước
Một trong những điểm mới đáng chú ý của Luật Đầu tư 2014 là việc bãi bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho các nhà đầu tư trong nước. Theo Luật Đầu tư năm 2005, các dự án đầu tư trong nước có quy mô vốn từ 15 tỷ trở lên hoặc thuộc lĩnh vực đầu tư có điều kiện đều phải xin giấy chứng nhận đầu tư.
Tuy nhiên, theo Luật Đầu tư 2014, các dự án của nhà đầu tư trong nước không cần phải thực hiện thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Thay vào đó, nhà đầu tư chỉ cần hoạt động dựa trên giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hay còn gọi là giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) là đủ và hợp lệ.
Quy định về cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho dự án đầu tư có vốn nước ngoài
Luật Đầu tư 2005 đặt ra một rào cản đối với nhà đầu tư khi có sự xung đột giữa qui định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp về cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh (hay còn gọi là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) cho các dự án đầu tư có vốn nước ngoài.
Theo quy định của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp năm 2005, trong trường hợp thực hiện dự án đầu tư kết hợp với việc thành lập doanh nghiệp, Giấy chứng nhận đầu tư sẽ bao gồm cả thông tin đăng ký kinh doanh và đăng ký doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là Giấy chứng nhận đầu tư đồng thời cũng là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Tuy nhiên, Luật Đầu tư 2014 đã phân chia rõ ràng nội dung đăng ký của dự án đầu tư bằng cách cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đầu tư, doanh nghiệp sẽ tiến hành đăng ký kinh doanh (còn gọi là đăng ký Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp) theo quy định của Luật Doanh nghiệp. Điều này giải quyết được sự xung đột giữa hai luật và đảm bảo tính rõ ràng và chính xác trong quá trình đăng ký và hoạt động của các dự án đầu tư có vốn nước ngoài.
Quy định về ngành nghề cấm và ngành nghề có điều kiện trong đầu tư kinh doanh
Theo Điều 6 của Luật Đầu tư 2014, đã được quy định cụ thể giới hạn của các ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh, khác với sự mập mờ trong Luật Đầu tư 2005 tại Điều 30. Theo quy định mới này, các ngành nghề cấm đầu tư kinh doanh bao gồm: kinh doanh ma túy; kinh doanh hóa chất, khoáng vật bị cấm; kinh doanh động, thực vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm có nguồn gốc từ tự nhiên; kinh doanh mại dâm; mua, bán người, mô, bộ phận cơ thể người và các hoạt động kinh doanh liên quan đến sinh sản vô tính trên người. Tinh thần này cũng được khẳng định tại Điều 5 của Luật Đầu tư 2014, cho phép nhà đầu tư thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh trong các ngành, nghề mà Luật này không cấm.
Đối với ngành nghề kinh doanh có điều kiện, Luật Đầu tư 2014 đã thiết lập phụ lục 04 để liệt kê 267 ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện. Điều này giúp nhà đầu tư có thể nhanh chóng tìm hiểu các ngành nghề kinh doanh có điều kiện tại Việt Nam, thay vì phải tìm hiểu qua các văn bản chuyên ngành khác nhau ngay từ khi có nhu cầu tìm hiểu các qui định về pháp luật đầu tư tại Việt Nam. Đặc biệt, quy định này đóng góp vào việc thiết lập một sự rõ ràng về lĩnh vực đầu tư có điều kiện tại Việt Nam, tránh hiểu lầm trong việc áp dụng luật và thi hành. Điều này góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh thông thoáng, hướng tới tối đa hoá nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Thu gọn phạm vi yêu cầu cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với nhà đầu tư nước ngoài.
Theo Luật Đầu tư 2005, tất cả các dự án có sự tham gia vốn nước ngoài, ngay cả khi tỷ lệ vốn của nhà đầu tư nước ngoài là không đáng kể (thậm chí chỉ chiếm 1% vốn điều lệ), vẫn yêu cầu cấp Giấy chứng nhận đầu tư. Tuy nhiên, theo Luật Đầu tư 2014, chỉ các dự án có sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm ít nhất 51% vốn điều lệ mới phải xin Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Đối với các dự án có tỷ lệ vốn FDI thấp hơn (nhà đầu tư nước ngoài hoặc doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài nắm giữ dưới 51% vốn điều lệ), thì sẽ được xem xét như dự án đầu tư trong nước và không cần phải xin giấy chứng nhận đăng ký đầu tư. Điều này thực sự đại diện cho một sự tiến bộ đáng kể trong Luật Đầu tư 2014, nhằm thu hút và khuyến khích đầu tư từ nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Quy định về quy trình quyết định chủ trương đầu tư
Theo Luật Đầu tư 2014, các dự án có quy mô lớn theo điều 30, 31 và 32 sẽ cần xin chấp thuận chủ trương đầu tư từ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ hoặc UBND cấp tỉnh. Điều này đã chính thức công nhận thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư, trong khi Luật Đầu tư 2005 chỉ áp dụng thủ tục không chính thức đối với một số dự án.
Mặc dù việc xin chấp thuận chủ trương đầu tư áp dụng cho các dự án lớn và đặc biệt, nhưng có thể có những tác động tiêu cực phát sinh từ việc công nhận thủ tục này. Thứ nhất, trong bối cảnh việc sửa đổi Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp mới chỉ được ban hành và chưa thực tế áp dụng, sự cẩn trọng của các cơ quan cấp phép có thể tạo điều kiện cho việc lạm dụng thủ tục xin chấp thuận chủ trương đầu tư. Trong trường hợp này, có nguy cơ rằng nhiều dự án không yêu cầu xin chấp thuận chủ trương đầu tư trong thực tế cũng sẽ bị bắt buộc phải thực hiện thủ tục này.
Quy định về tư cách của nhà đầu tư nước ngoài
Hiện tại, nhà đầu tư nước ngoài được xác định chủ yếu dựa trên tiêu chí quốc tịch, nghĩa là những người không có quốc tịch Việt Nam được xem là nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, cũng có quan điểm khác xác định nhà đầu tư nước ngoài dựa trên vốn, tức là chỉ cần doanh nghiệp có vốn đầu tư từ nước ngoài tại Việt Nam thì được coi là nhà đầu tư nước ngoài. Thực tế, nên lựa chọn phương án xác định nhà đầu tư nước ngoài theo quốc tịch, tuy nhiên Luật Đầu tư 2014 lại lựa chọn phương án trung gian.
Luật Đầu tư phân loại nhà đầu tư nước ngoài thành ba nhóm: Nhóm 1 gồm nhà đầu tư có quốc tịch nước ngoài; Nhóm 2 gồm các doanh nghiệp Việt Nam có 51% vốn nước ngoài; và Nhóm 3 gồm các doanh nghiệp Việt Nam có dưới 51% vốn nước ngoài. Nhóm 1 và Nhóm 2 phải tuân thủ các điều kiện áp dụng cho nhà đầu tư nước ngoài (bao gồm ngành nghề đầu tư, thủ tục đầu tư, chính sách đầu tư…). Tuy nhiên, Nhóm 3 được áp dụng các thủ tục và điều kiện giống như doanh nghiệp trong nước. Một vấn đề phát sinh từ đây là sự khác biệt giữa một doanh nghiệp có vốn nước ngoài chiếm 51% vốn điều lệ và một doanh nghiệp có vốn nước ngoài chiếm 50,9% vốn điều lệ lại bị áp dụng hai cơ chế, thủ tục đầu tư khác nhau. Có thể xem điều này là một bất cập của quy định này.
Kết nối MXH