Hợp đồng dân sự là một khái niệm pháp lý quan trọng trong lĩnh vực giao dịch và hợp đồng. Được xem là một cam kết pháp lý giữa hai hoặc nhiều bên, hợp đồng dân sự thường đi kèm với những quyền và nghĩa vụ mà mỗi bên phải tuân theo. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng mọi hợp đồng đều được thực hiện một cách suôn sẻ và không có sự xung đột. Trong thực tế, có nhiều trường hợp khiến hợp đồng dân sự vô hiệu do những vấn đề pháp lý hoặc yếu tố ngoại vi. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu các tình huống và điều kiện khiến cho hợp đồng dân sự có thể mất đi hiệu lực của mình.
Mục lục
- 1 Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu
- 2 Những Trường Hợp Hợp Đồng Vô Hiệu
- 2.1 Vi Phạm Điều Kiện Quyết Định Hiệu Lực Của Giao Dịch Dân Sự
- 2.2 Vi Phạm Quy Định Pháp Luật và Đạo Đức Xã Hội
- 2.3 Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu Do Giả tạo
- 2.4 Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
- 2.5 Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu Do Nhầm Lẫn
- 2.6 Do Bị Lừa Dối, Đe Doạ
- 2.7 Người Xác Lập Không Làm Chủ Được Hành Vi Của Mình
- 2.8 Không Tuân Thủ Quy Định Về Hình Thức
- 2.9 Hiệu Lực của Hợp Đồng Chính và Hợp Đồng Phụ
Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu
Hợp đồng dân sự vô hiệu (Invalid Civil Contract) là hợp đồng được xác lập mà không tuân theo một hoặc nhiều điều kiện quy định về hiệu lực của hợp đồng. Các điều kiện vô hiệu cho hợp đồng dân sự thường được quy định trong luật dân sự và liên quan đến việc người tham gia hợp đồng phải tuân thủ các quy định về năng lực, tính tự nguyện, không lừa dối, và các yếu tố khác cần thiết để hợp đồng có hiệu lực.
Những Trường Hợp Hợp Đồng Vô Hiệu
Vi Phạm Điều Kiện Quyết Định Hiệu Lực Của Giao Dịch Dân Sự
Giao dịch có thể trở thành vô hiệu nếu không đáp ứng một trong những điều kiện được quy định tại Điều 122 của Bộ Luật Dân Sự (BLDS). Các điều kiện này bao gồm:
- Năng lực hành vi dân sự: Người tham gia giao dịch phải có đủ năng lực pháp lý để thực hiện hành vi dân sự. Điều này đảm bảo rằng họ có thể tự quyết định và chịu trách nhiệm cho hành động của mình.
- Tuân thủ quy định pháp luật: Mục đích và nội dung của giao dịch không được vi phạm bất kỳ quy định nào của pháp luật và không trái đạo đức xã hội. Điều này đảm bảo tính hợp pháp và đạo đức của giao dịch.
- Sự tự nguyện: Người tham gia giao dịch phải tham gia hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc hoặc áp đặt mà không có sự đồng tình tự nguyện thực sự.
Ngoài ra, nếu pháp luật yêu cầu giao dịch phải được thể hiện bằng một hình thức cụ thể nào đó, thì hình thức đó cũng được xem xét là một điều kiện quan trọng và có hiệu lực trong giao dịch.
Vi Phạm Quy Định Pháp Luật và Đạo Đức Xã Hội
Giao dịch dân sự trở nên không hợp lệ khi vi phạm quy định của pháp luật hoặc chống đạo đức xã hội. Điều này đồng nghĩa với việc nếu mục đích và nội dung của giao dịch dân sự vi phạm các quy định của pháp luật hoặc không tuân thủ tiêu chuẩn đạo đức xã hội, thì hợp đồng dân sự vô hiệu. Vi phạm quy định của pháp luật ám chỉ sự vi phạm các quy định và luật lệ mà pháp luật đã thiết lập và cấm. Ví dụ như vi phạm các luật liên quan đến buôn bán chất ma túy. Tiêu chuẩn đạo đức xã hội đề cập đến những nguyên tắc ứng xử được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng trong cuộc sống hàng ngày
Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu Do Giả tạo
Trong trường hợp một giao dịch dân sự được thiết lập một cách giả tạo nhằm che giấu một giao dịch khác, giao dịch giả tạo đó sẽ bị tước bỏ hiệu lực. Tuy nhiên, giao dịch bị che giấu vẫn sẽ có giá trị và hiệu lực. Trừ khi nó cũng bị vô hiệu theo các quy định khác trong BLDS. Ví dụ, trong tình huống khi A bán tài sản cho B, nhưng tạo ra một hợp đồng giả tạo là hợp đồng tặng cho mục đích tránh trách nhiệm thuế đối với cơ quan chính phủ. Thì hợp đồng tặng cho sẽ bị tước bỏ hiệu lực, nhưng hợp đồng mua bán tài sản vẫn giữ nguyên giá trị. Luật cũng quy định rằng trong trường hợp giao dịch được thiết lập giả tạo để trốn tránh trách nhiệm đối với một bên thứ ba, thì giao dịch đó cũng sẽ bị tước bỏ hiệu lực.
Giao dịch dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
Trong trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự thực hiện giao dịch dân sự, toà án có thể tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu khi có yêu cầu từ người đại diện của họ. Nếu theo quy định của pháp luật, giao dịch này phải do người đại diện của họ xác lập và thực hiện. Trong trường hợp một người bị tâm thần không có khả năng nhận thức về hành vi của mình đã ký một hợp đồng để bán nhà cho một người khác, giao dịch này sẽ bị tước bỏ hiệu lực. Bởi vì trong tình huống này, người bị tâm thần không thể thực hiện giao dịch một cách độc lập và cần phải có người đại diện đứng ra thay mặt.
Hợp Đồng Dân Sự Vô Hiệu Do Nhầm Lẫn
Khi một bên gây ra lỗi không cố ý dẫn đến sự nhầm lẫn của bên kia về nội dung của giao dịch dân sự mà đã xác lập, bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia sửa đổi nội dung của giao dịch đó. Trong trường hợp bên kia không chấp nhận thay đổi, bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch đó là vô hiệu. Ví dụ, A bán một chiếc xe máy cho B, nhưng A quên thông báo cho B biết rằng hệ thống đèn của chiếc xe đã bị hỏng. B yêu cầu A giảm giá hoặc thay thế hệ thống đèn, nhưng A không đồng ý. Trong trường hợp này, B có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch mua bán đó là vô hiệu.
Nếu trường hợp một bên gây ra lỗi cố ý để bên kia nhầm lẫn về nội dung giao dịch, thì sẽ áp dụng các quy định tại Điều 132 của BLDS về giao dịch dân sự bị lừa dối hoặc đe dọa. Nếu A cố ý che giấu thông tin về hệ thống đèn bị hỏng và nói dối B rằng hệ thống đèn hoạt động tốt, trường hợp này được coi là một giao dịch bị lừa dối.
Do Bị Lừa Dối, Đe Doạ
Theo quy định của BLDS, lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của người thứ ba nhằm gây hiểu sai lệch cho bên kia về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của giao dịch mà đã xác lập giao dịch đó. Đe doạ trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải thực hiện giao dịch nhằm tránh thương tổn về tính mạng, sức khoẻ, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ, vợ, chồng, con của mình. Khi một bên tham gia giao dịch dân sự do bị lừa dối hoặc đe doạ, bên đó có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu.
Người Xác Lập Không Làm Chủ Được Hành Vi Của Mình
Người có năng lực hành vi dân sự, nhưng đã xác lập giao dịch mà vào thời điểm xác lập giao dịch đó họ không nhận thức và không kiểm soát được hành vi của mình, có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch dân sự đó là vô hiệu. Ví dụ, một người có năng lực hành vi dân sự bình thường nhưng đã ký hợp đồng mua bán tài sản trong tình trạng say rượu và không nhận thức được hành vi của mình, trong trường hợp này, hợp đồng đó sẽ bị tước bỏ hiệu lực nếu người đó yêu cầu toà án tuyên bỏ hiệu lực của hợp đồng đó.
Không Tuân Thủ Quy Định Về Hình Thức
Khi luật pháp đề ra các yêu cầu về hình thức cụ thể cho giao dịch, và các bên tham gia không tuân theo, toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền có quyền yêu cầu các bên thực hiện theo hình thức đó trong một khoảng thời gian cụ thể. Nếu sau thời hạn đó các bên không thực hiện theo hình thức yêu cầu, giao dịch sẽ bị tước bỏ hiệu lực. Ví dụ, A và B đồng ý mua bán một căn nhà, nhưng họ không ký hợp đồng bằng văn bản (như luật định). Khi có xung đột phát sinh, toà án yêu cầu họ hoàn tất thủ tục về hình thức trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng không có bên nào tuân thủ. Nếu một trong hai bên yêu cầu, toà án có thể tuyên bỏ hiệu lực của hợp đồng.
Ngoài các quy định trên, pháp luật còn có quy định về hợp đồng dân sự bị vô hiệu vì đối tượng không thể thực hiện được. Đó là trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được vì lí do khách quan.
Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được nhưng không thông báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được. Ví dụ, A cam kết sẽ sản xuất để bán cho B một loại thuốc có thể chữa được bệnh tim mạch, B tin tưởng rằng A có thể bán cho mình loại thuốc đó nên đã giao kết hợp đồng với A nhưng vì lí do khách quan A không thể sản xuất được loại thuốc đó và A cũng biết rằng mình sẽ không thể giao cho B loại thuốc đó nhưng lại không thông báo cho B biết. Trong trường hợp này hợp đồng bị coi là vô hiệu và A phải bồi thường cho B.
Hiệu Lực của Hợp Đồng Chính và Hợp Đồng Phụ
Quy định trên cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được. Nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.
Theo quy định hiện hành, sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng phụ. Trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Tuy nhiên, quy định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.
Kết nối MXH